Các sinh vật riêng lẻ đến rồi đi, nhưng ở một mức độ nào đó, các sinh vật vượt thời gian bằng cách sinh ra con cái. Sinh sản ở động vật xảy ra theo hai cách chính, thông qua sinh sản hữu tính và thông qua sinh sản vô tính . Trong khi hầu hết các sinh vật động vật sinh sản thông qua các biện pháp hữu tính, một số cũng có khả năng sinh sản vô tính.
Ưu điểm và nhược điểm
Trong sinh sản hữu tính, hai cá thể sinh ra con cái thừa hưởng các đặc điểm di truyền từ cả bố và mẹ. Sinh sản hữu tính đưa các tổ hợp gen mới vào quần thể thông quacủa tái tổ hợp di truyền . Dòng kết hợp gen mới cho phép các thành viên của một loài sống sót qua những thay đổi và điều kiện môi trường bất lợi hoặc nguy hiểm. Đây là một lợi thế lớn mà các sinh vật sinh sản hữu tính có hơn những sinh vật sinh sản vô tính. Sinh sản hữu tính cũng có lợi vì đây là một cách để loại bỏ các đột biến gen có hại khỏi quần thể thông qua tái tổ hợp.
Có một số nhược điểm trong sinh sản hữu tính. Vì con đực và con cái cùng loài bắt buộc phải sinh sản hữu tính, nên người ta thường dành một lượng thời gian và năng lượng đáng kể để tìm kiếm bạn đời phù hợp. Điều này đặc biệt quan trọng đối với những động vật không có nhiều con non, vì bạn đời phù hợp có thể tăng cơ hội sống sót của con non. Một bất lợi khác là con cái mất nhiều thời gian hơn để tăng trưởng và phát triển trong các sinh vật sinh sản hữu tính. Ví dụ, ở động vật có vú , có thể mất vài tháng để con non được sinh ra và nhiều tháng hoặc nhiều năm nữa trước khi chúng trở nên độc lập.
giao tử
Ở động vật, sinh sản hữu tính là sự kết hợp của haitách giao tử (tế bào sinh dục) để tạo thành hợp tử. Giao tử được tạo ra bởi một kiểu phân chia tế bào gọi là giảm phân . Ở người, giao tử được tạo ra ở tuyến sinh dục nam và nữ . Khi các giao tử hợp nhất trong quá trình thụ tinh , một cá thể mới được hình thành.
Giao tử là đơn bội và chứa một bộ nhiễm sắc thể. Ví dụ, giao tử của con người chứa 23 nhiễm sắc thể. Sau khi thụ tinh, một hợp tử được tạo ra từ sự kết hợp của trứng và tinh trùng. Hợp tử là lưỡng bội và chứa hai bộ 23 nhiễm sắc thể với tổng số 46 nhiễm sắc thể.
Ở động vật và các loài thực vật bậc cao , tế bào sinh dục đực tương đối di động và thường có roi . Giao tử cái không di động và tương đối lớn so với giao tử đực.
Các loại phân bón
Có hai cơ chế mà quá trình thụ tinh có thể diễn ra. Đầu tiên là bên ngoài (trứng được thụ tinh bên ngoài cơ thể) và thứ hai là bên trong (trứng được thụ tinh bên trong hệ thống sinh sản nữ ). Trong cả hai trường hợp, mỗi quả trứng được thụ tinh bởi một tế bào tinh trùng để đảm bảo rằng số lượng nhiễm sắc thể chính xác được bảo tồn.
Trong thụ tinh ngoài, các giao tử được giải phóng vào môi trường (điển hình là nước) và gắn với nhau một cách ngẫu nhiên. Kiểu thụ tinh này còn được gọi là đẻ trứng. Trong quá trình thụ tinh bên trong, các giao tử hợp nhất bên trong con cái. Ở chim và bò sát, phôi trưởng thành bên ngoài cơ thể và được bảo vệ bởi lớp vỏ. Ở hầu hết các loài động vật có vú, phôi trưởng thành bên trong mẹ.
Mô hình và chu kỳ
Sinh sản không phải là một hoạt động liên tục và tuân theo các mô hình và chu kỳ nhất định. Thường thì các mô hình và chu kỳ này có thể được liên kết với các điều kiện môi trường cho phép các sinh vật sinh sản hiệu quả.
Ví dụ, nhiều loài động vật có chu kỳ động dục diễn ra vào những thời điểm nhất định trong năm để con non thường có thể được sinh ra trong điều kiện thuận lợi. Tuy nhiên, con người không trải qua chu kỳ động dục mà là chu kỳ kinh nguyệt.
Tương tự như vậy, các chu kỳ và mô hình này được kiểm soát bởi các tín hiệu nội tiết tố. Nhiệt cũng có thể được kiểm soát bởi các tín hiệu theo mùa khác như mưa.
Tất cả các chu kỳ và mô hình này cho phép các sinh vật quản lý mức tiêu hao năng lượng tương đối để sinh sản và tối đa hóa cơ hội sống sót của thế hệ con.