Chọn lọc nhân tạo liên quan đến việc giao phối hai cá thể trong một loài có những đặc điểm mong muốn cho con cái. Không giống như chọn lọc tự nhiên , chọn lọc nhân tạo không phải là ngẫu nhiên và được kiểm soát bởi mong muốn của con người. Động vật, cả động vật nuôi và động vật hoang dã hiện đang bị nuôi nhốt, thường là đối tượng của sự lựa chọn nhân tạo của con người để có được động vật lý tưởng về ngoại hình, hành vi hoặc các đặc điểm mong muốn khác.
Darwin và chọn lọc nhân tạo
Chọn lọc nhân tạo không phải là một thực hành mới. Charles Darwin , cha đẻ của thuyết tiến hóa , đã sử dụng chọn lọc nhân tạo để giúp củng cố công việc của mình khi ông đưa ra ý tưởng về chọn lọc tự nhiên và Thuyết Tiến hóa. Sau khi du hành trên HMS Beagle đến Nam Mỹ và có lẽ đáng chú ý nhất là đến Quần đảo Galapagos, nơi ông quan sát thấy những con chim sẻ có mỏ có hình dạng khác nhau, Darwin muốn xem liệu ông có thể tái tạo kiểu thay đổi này trong điều kiện nuôi nhốt hay không.
Khi trở về Anh, Darwin đã lai tạo các loài chim. Thông qua chọn lọc nhân tạo qua nhiều thế hệ, Darwin đã có thể tạo ra con cái với những đặc điểm mong muốn bằng cách giao phối với bố mẹ sở hữu những đặc điểm đó. Lựa chọn nhân tạo ở chim có thể bao gồm màu sắc, hình dạng và chiều dài mỏ, kích thước, v.v.
Lợi ích của chọn lọc nhân tạo
Lựa chọn nhân tạo ở động vật có thể là một liên doanh có lợi nhuận. Ví dụ: nhiều chủ sở hữu và người huấn luyện sẽ trả nhiều tiền nhất cho những con ngựa đua có phả hệ cụ thể. Những con ngựa đua vô địch sau khi nghỉ hưu thường được sử dụng để lai tạo thế hệ những người chiến thắng tiếp theo. Cơ bắp, kích thước và thậm chí cả cấu trúc xương có thể được truyền từ cha mẹ sang con cái. Nếu có thể tìm thấy hai bố mẹ có các đặc điểm ngựa đua mong muốn, thì khả năng con cái cũng sẽ có các đặc điểm vô địch mà chủ sở hữu và người huấn luyện mong muốn là rất lớn.
Một ví dụ phổ biến về chọn lọc nhân tạo ở động vật là nhân giống chó. Đối với ngựa đua, những đặc điểm cụ thể được mong muốn ở các giống chó khác nhau thi đấu trong các cuộc thi dành cho chó. Các thẩm phán nhìn vào màu lông và hoa văn, hành vi và thậm chí cả răng. Mặc dù các hành vi có thể được huấn luyện, nhưng cũng có bằng chứng cho thấy một số đặc điểm hành vi được di truyền.
Ngay cả trong số những con chó không trưng bày, một số giống đã trở nên phổ biến hơn. Các giống lai mới hơn như Labradoodle, sự pha trộn giữa chó tha mồi Labrador và chó xù, và chó xù, có nguồn gốc từ việc lai tạo giữa chó pug và chó săn, đang có nhu cầu cao. Hầu hết những người thích những giống lai này đều thích sự độc đáo và vẻ ngoài của những giống mới. Các nhà lai tạo chọn bố mẹ dựa trên những đặc điểm mà họ tin rằng sẽ thuận lợi ở thế hệ con.
chọn lọc nhân tạo trong nghiên cứu
Chọn lọc nhân tạo ở động vật cũng có thể được sử dụng để nghiên cứu. Nhiều phòng thí nghiệm sử dụng động vật gặm nhấm như chuột nhắt và chuột cống để thực hiện các thử nghiệm chưa sẵn sàng cho thử nghiệm trên người. Đôi khi nghiên cứu liên quan đến việc nhân giống chuột để có được đặc điểm hoặc gen được nghiên cứu ở thế hệ con. Ngược lại, một số phòng thí nghiệm điều tra việc thiếu một số gen nhất định. Trong trường hợp đó, những con chuột không có những gen đó được nhân giống để tạo ra những đứa con thiếu gen đó để chúng có thể được nghiên cứu.
Bất kỳ động vật thuần hóa hoặc nuôi nhốt nào cũng có thể là đối tượng của sự chọn lọc nhân tạo. Từ mèo đến gấu trúc đến cá nhiệt đới, chọn lọc nhân tạo ở động vật có thể có nghĩa là sự tiếp tục của một loài có nguy cơ tuyệt chủng , một loại động vật đồng hành mới hoặc một loài động vật mới thú vị để ngắm nhìn. Mặc dù những đặc điểm này có thể không bao giờ xảy ra thông qua chọn lọc tự nhiên, nhưng chúng có thể đạt được thông qua các chương trình nhân giống. Chừng nào con người còn có sở thích, thì sẽ có sự chọn lọc nhân tạo ở động vật để đảm bảo những sở thích đó được đáp ứng.